Bùi Trọng Cường & Nguyễn Phục Hưng
Sau
ngày 30-4-1975, một ký giả Tây phương đã viết là ‘Dưới chính sách khắc
nghiệt của Cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt
biên’. (Ginetta Sagan). Câu nói dí dỏm của Sagan đã diễn tả được một
thực trạng rất bi hài của dân dộc Việt Nam trong khoảng thời gian hơn
hai mươi năm kể từ Tháng Tư, 1975 cho đến năm 1996.
Những
người chạy trốn chế độ Cộng Sản có thể chia làm hai đợt chính: Đợt đầu
được mệnh danh là người Di Tản vì họ rời Việt Nam ngay trong khoảng
tháng Tư 1975 và đợt thứ hai thường được mệnh danh là ngưòi Vượt Biên,
dù bằng đường bộ hay đường biển.
Di Tản
Ngày
30 tháng 4, 1975 là ngày chính thức ghi nhân sự sụp đổ của Việt Nam
Cộng Hoà trước làn sóng xâm lăng của cộng quân. Cuối tháng 4,1975 đã có
những đợt rời Việt Nam của các nhân viên và gia đình các sứ quán, công
ty ngoại quốc cũng như nhừng người Việt có phương tiện riêng hoặc được
các cơ quan Hoa Kỳ và các nước đồng minh bảo trợ. Ngày 29 tháng tư
1975, Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford chính thức ra lịnh khỏi động chiến
dịch “Frequent Wind” để di tản quân nhân, nhân viên dân sự Mỹ và một
số người Việt đã từng cộng tác hay liên hê với chính phủ Mỹ và chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa rời khỏi Việt Nam để tránh bị Cộng Sản trả thù.
Cùng
thời điểm này, rất nhiều người Việt Nam cũng đã quyêt đinh di tản. Họ
là những người mà đã ít nhất một lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả
ông bà, tổ tiên để di cư vào Nam năm 1954, họ là những người đã có ít
nhiều hiểu biết, kinh nghiệm về cộng sản, họ là những người đã may mắn
vượt thoát được sau cuộc triệt thoái của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa khỏi
miền Cao nguyên và miền Trung, họ là những người chối bỏ chế độ cộng
sản. Ðó là lý do mà làn sóng người di tản trong tháng Tư 1975 đã làm
nhiều người ngạc nhiên với con số khoảng 300 ngàn người và các cơ quan
cứu trợ quốc tế đã phải mất nhiều thời gian để giúp họ định cư ở các
nước tự do nhất là Mỹ, Canada, Úc, Tân Tây Lan và các trai tạm cư ở
Subic Bay (Philippines), Guam, Wake Island, California, Arkansas,
Florida, Pensylvania ãa phải mở mãi cho đến cuối năm 1975.
Chiến
dịch ‘Frequent Wind” trên nguyên tắc chỉ kéo dài từ 3:30 chiều ngày 29
tháng tư và chấm dứt vào đúng 21 giờ ngày 30 tháng tư, 1975 khi người
lính Mỹ cuối cùng được trục thăng bốc khỏi Sàigòn và trụ sở của cơ quan
DAO (Defence Attachés Offfice) của Hoa Kỳ được Thủy quân lục Chiến Hoa
kỳ cho phá nổ. Tuy nhiên với làn sóng người di tản rầm rộ đổ
ra biển Thái Bình Dương bằng các tàu hải quân, thương thuyền và cả các
tàu đánh cá nhỏ, việc cứư vớt người vẫn được tiếp tục trong nhiều tuần
sau đó. Hạm đội số 7 của Hải quân Hoa Kỳ với các hàng không mẫu hạm
Hancok , Midway và nhiều tàu chiến hạm cũng như nhiều thương thuyền Hoa
kỳ và quôc tế đã tham dự vào chiến dịch cứu vớt người trên biển rồi
chuyển qua các trai ty nạn ở Subic, Guam trước khi phân tán họ đi tị nạn
tai Hoa kỳ và các nước tự do khác như Canada, Uc, Pháp, Anh, vân vân.
Trên thực tế, giai đoan di tản và vượt biên không có sư gián
đoạn. Có chăng chỉ là sự phân chia thời điểm chính phủ Hoa Kỳ chấm dứt
chiến dịch vớt người trên biển mà thôi, còn sự ra đi của người Việt vần
tiếp tục không ngừng.
Những hình ảnh sau đây ghi nhận cảnh hãi hùng của một cuộc di tản chưa từng có trong lich sử Việt Nam và thế giới.
Cuộc
Di Tản tháng tư năm 1975 đã có nhiều cảnh đẫm máu và nước mắt nhưng
tình nhân loai cũng đã được biểu lộ rõ rệt từ những quân nhân và các cơ
quan từ thiện. Sau khi đã đến đựợc Mỹ hay các nước mở vòng tay đón
nhân, dân Di Tản còn phải trải qua nhiều khó khăn như sự khác biệt ngôn
ngữ, văn hóa, vân vân để tạo lại cuộc sống.
Vượt Biên
Họ
ra đi mà không biết mình đi đâu, sẽ đến đâu; đa số không biết gì về đại
dương cùng những nguy hiểm của những chuyến hải hành cũng như không
biết gì về những khó khăn khác đang chờ đợi họ. Ðó là lý do mà có lúc
người ta đã nói “ nếu có ba người vượt biên thì chỉ có một người đến bến
an toàn, một người chết trên biển vì bảo tố, đói khát và hải tặc và một
người sẽ bị bắt lại và đi tù”.
The State of the World’s Refugees 2000:
50 Years of Humanitarian Action
Những Người Vượt Biên là ai và tai sao họ phải liều mình đi tìm Tự Do?
Họ
chính là những người chậm chân trong giai đoạn Di Tản. Có thể lúc đó họ
còn chút hy vọng là những người Cộng sản cũng còn chút lương tâm và
sáng suốt không nỡ đối xử với những người dân miền Nam như kẻ thù không
đội trời chung và họ sẵn sàng cộng tác với những người Cộng sản để cùng
xây dựng một Đât nước Thông Nhất trong Hòa Bình. Họ đã lầm sau bao
nhiêu ngày lầm than tôi mọi cho những người Cộng Sản vô lương.
Họ đã mất hết tài sản, tự do và cả phẩm giá con người dưới chánh sách
trả thù tàn bạo của Cọng sản. Họ có thể chịu nghèo khổ để hy vọng vào
một tương lai xán lạn. Nhưng tương lai chỉ có tù đầy, thù hận và dối
trá. Thế hệ của họ coi như bỏ vì họ đã lỡ tin Cộng Sản. Nhưng còn thế hệ
con cái họ? Họ không thể chịu cực khổ nhìn con cái họ trở thành những
con vật trong xã hội Cộng sản Xã hội Việt Nam đã lùi lại hơn 30 năm sau
cái ngày gọi là ‘giải phóng’. Tương lai họ còn gì đâu ngoài một lối đi
duy nhất: Vượt Biên. Nếu may ra thoát được qua bờ Tự Do thì con cái họ
còn có hy vọng sống được một cuộc đời đáng sống. Còn không, đời sống ở
Việtnam có khác gì đã chết. Bới vậy Họ đã quyết chí liều mình Vượt
Biên qua Cam-pu-chia, đến Thái Lan hay Vượt Biển qua Mã Lai, Nam Dưong,
Phi Luật Tân nơi nào cũng được, miễn là ra khỏi điạ ngục Việt Nam bất
chấp sự bắt bớ lùng xét của công an, hiểm nguy của hải tặc, bão tố hãi
hùng ngoài biển Đông.
Sau đây là vài trích đoạn từ các tác phẩm viết về tỵ nạn:
“Người
Việt Nam chỉ ra đi trong thế cùng, không còn cách nào có thể sinh sống
tại quê hương của mình. Ðây là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại chống lại chế độ
cộng sản Hà Nội bằng chính mạng sống của mình. Trong số nầy, rất nhiều
người mang hoài bảo sẽ có một ngày trở về quang phục quê hương. Số
người tử nạn trên bước đường vượt biên không thể thống kê chính xác
được. Người ta phỏng chừng từ 400.000 đến 500.000 thuyền nhân bỏ mình
trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết.
Vượt
biên năm 1975 là cuộc xuất ngoại vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể
từ ngày lập quốc. Ðây là một sự kiện hoàn toàn bất ngờ đối với Nam
Việt, Bắc Việt, Hoa Kỳ và cả thế giới. Trước đó, không một ai có thể
tiên đoán được phong trào vượt biên sẽ xảy ra đến mức lớn lao như thế.
Phong trào vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1996 ngang bằng với thời gian
chiến tranh từ 1954 đến 1975. Tổng số người rời bỏ đất nước bằng tất cả
các cách, cộng với những người tử nạn trên đường vượt biên, lên đến
khoảng gần bằng tổng số dân chúng và quân nhân Việt Nam cả Nam lẫn Bắc
tử trận trong cuộc chiến từ 1954 đến 1975 (khoảng 3,000,000).
Những
đợt vượt biên ào ạt, bất chấp mạng sống đã làm rúng động lương tâm nhân
loại, và đã phơi trần bản chất độc ác của chế độ Cộng Sản Việt Nam
(CSVN) trước công luận thế giới. Sự kiện nầy là tiếng chuông cảnh tỉnh
đối với nhân loại về “Thiên Đường Cộng Sản” và trở thành động cơ thúc
đẩy các nước Ðông Âu ly khai chủ nghĩa cộng sản, và dẫn đến sự sụp đổ
của khối cộng sản năm 1990-1991?
Phỏng theoTrần Gia Phụng
‘‘Bước
vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam vẫn là một trong các nước chậm tiến trên
thế giới, mặc dầu có sẵn tiềm năng, nhưng vì sai lầm nghiêm trọng của
đường lối Xã Hội Chủ Nghĩa. Những thảm trạng xẩy ra trong hơn nửa thế kỷ
vừa qua cần phải được ghi nhớ, trong đó có hai sự kiện gần nhất là việc
nhà cầm quyền cộng sản giam cầm công dân vô tội trong tù cải tạo và
việc người dân trốn ra ngoại quốc trong những điều kiện bất trắc đầy
nguy hiểm. Giam giữ người vô tội trong các trại tập trung cải tạo, chế
độ cộng sản đã một mặt vi phạm tội ác, một mặt phung phí năng lực quốc
gia để phục vụ mục tiêu đảng phái. Đảng Cộng Sản không chịu thú nhận
rằng chính tàn bạo của họ là nguyên nhân khiến người dân phải bỏ nước ra
đi, mà họ còn lợi dụng cơ hội ra đi đó để cướp đoạt tài sản, thu vàng
bán bãi, mặc cho tài năng quốc gia thất thoát ra ngoài và biết bao người
dân lương thiện đã bị chết kinh hoàng trên biển cả.
Phạm Hữu Trác – Vàng Máu và Nước Mắt
Trong
2 năm qua, nhất là từ tháng 9 năm 1978, làn sóng người tị nạn từ nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang tràn ngập các trại tị nạn ở Ðông
Nam Á. Ngoài ra, hàng trăm ngàn người Việt Nam đã bị chính quyền Hà
Nội bắt buộc ra đi trên những con tàu không thể đi biển được, và đã biến
mất trên Biển Ðông đầy bất trắc. Ở một số bờ biển Thái Lan, các ngư
dân đã phải quay tàu về đất liền khi chứng kiến cảnh hãi hùng như một
phần thi thể của người vượt biển vướng vào lưới, vân vân.
Vì
sao quá nhiều người liều mạng bỏ trốn khỏi Việt Nam? Ta có thể tìm thấy
câu trả lời khá dễ dàng trong các chính sách hậu chiến đã được công
khai thực hiện: “tiêu diệt các thế lực thù nghịch: trừng trị những kẻ bù
nhìn, đánh bại giới tư bản, đánh đuổi người Trung Hoa.”
Hiện
tượng thuyền nhân đã phản ảnh được cái đau khổ của người phải rời bỏ
quê hương. Họ không phải chỉ kín đáo đi từ bên này sang bên kia biên
giới, chờ đợi cơ hội quay về khi mọi chuyện đã trở lại bình thường hay
theo ý họ mong muốn. Họ ra đi, không hề biết trước mình sẽ đến đâu,
không có viễn ảnh hồi hương, và cam chịu mọi hiểm nguy. Họ phải đang
tâm cắt bỏ những ràng buộc với quê hương và dân tộc.
Thuyền
nhân là những người không chịu đựng được chính sách hà khắc của chính
quyền cộng sản Họ là những người mà trước năm 1975, không bao giờ muốn
rời bỏ quê hương. Trớ trêu thay, lịch sử đã đảo lộn, đã thay đổi cuộc
đời ho vượt xa sức họ tưởng tượng, đến mức họ phải quyết định bỏ lại sau
lưng tất cả những người và những gì yêu quý, liều mạng sống của mình
cũng như chấp nhận mọi nỗi kinh hoàng của một tương lai bất định, để rời
khỏi Việt Nam.
Lesleyanne Hawthorne - Refugee - The Vietnamese Experience
Những
‘thuyền nhân’, danh từ thế giới gán cho họ, thường phải chịu nhiều rủi
ro lớn lao, từ rất lâu trước khi đặt được chân xuống tàu. Trong khi cố
gắng tìm cách để thoát được công an và lính biên phòng, họ đã chấp nhận
rủi ro bị bắn, hoặc nhẹ nhất là, bị bắt lại và bỏ tù. Những ai may mắn
xuống được tàu phải ra đi trên các thuyền đánh cá mỏng manh đầy ắp người
không thích hợp để đi vượt đại dương. Thường thường, họ nhắm hướng đi
đến Thái Lan hoặc Mã Lai, nhưng lại cập bến ở đâu đó giữa Hồng Kông và
Úc Ðại Lợi. Biển cả cũng cướp đi một số người mà không ai biết được là
bao nhiêu.
Tuy
vậy, cuối cùng thì câu chuyện về những người tị nạn Ðông Dương là câu
chuyện về những người bị từ chối. Trước tiên và đau đớn nhất, họ bị
chính quyền của chính nước họ khước từ. Họ cũng nhiều lần bị cự tuyệt
bởi các quốc gia lân bang nơi họ đến xin tạm trú, và bị từ chối ít nhất
là vào lúc đầu bởi các nước Tây Phương và Nhật Bản, những quốc gia duy
nhất có khả năng và tấm lòng cứu vớt thuyền nhân.
Barry Wain - The refused: The Agony of The Indochina Refugees
“Chúng
tôi cần gạo và thực phẩm. Trong những ngày này, chúng tôi không có
tiền để mua thêm thức ăn. Chúng tôi không được phép có công việc làm.
Nếu thực phẩm được phát trễ, chúng tôi chỉ việc nhịn đói. Chúng tôi có
rất ít nước uống, vì đang là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện không
thay đổi, chúng tôi sẽ chết hết.”
Refugee: Thailand, 1978
“Trong
bệnh viện, một người đàn ông và đứa con trai đang khóc trên lán. Tàu
họ đã đến đêm hôm trước, nhưng bị lật úp. Người vợ, người mẹ đã chết
đuối.”
Delegates of ‘Society of Friends’: Malaysia, 1979
“Các
lính tuần tra phát hiện có những bao ni-lông xoáy tròn trên mặt nước.
Họ chuẩn bị tăng tốc độ vọt đi tiếp, thì khám phá ra rằng, các bao nhựa
này đã được thổi phồng, căng lên, để chở hai em bé sơ sinh, dĩ nhiên là
chưa biết bơi. Người mẹ đang ra sức đẩy chúng. Người cha đã không may
chết đuối trước đó.”
Report: Mekong River Crossing, 1978
Người
mẹ của một em trai 14 tuổi kể lại, tàu của cô bị hải tặc từ một tàu cào
của Thái Lan nhảy sang. “Tôi biết bọn chúng sẽ làm gì”, cô vừa kể vừa
khóc nức nở. “Tôi van xin chúng đừng làm gì trước mặt con trai tôi. Vì
thế, chúng đưa tôi vào cabin tàu, rồi 7 tên cưỡng hiếp tôi trong đó.”
Refugee: Malaysia, 1979
Anh
Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla
ở 1 bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của mình lần thứ
ba.
Anh
ra đi trên một chiếc tàu gồm 62 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may
mắn gặp thời tiết và gió thuận lợi, và không bị rắc rối gì về máy tàu.
Vào ngày thứ 5 trên biển, một chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp
sát mạn tàu anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị
vũ khí đầy đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ
sang tàu chúng. Một trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô
này bị ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh
không được kêu la. Cô bị chúng cưỡng hiếp. Bọn hải tặc sau đó nhảy qua
tàu tị nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị, bắn một người đàn ông còn do dự
khi chúng cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải
chiếm được, nhưng thình lình quay ngoắt lại. Vẫn giữ nguyên tốc độ tối
đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tị nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã
lập đi lập lại hành động này trong khi nhóm người tị nạn đang hốt hoảng
ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc
đầu đang nhấp nhô, có lẽ vì không muốn để sót lại nhân chứng nào. Khi
vợ anh Trân còn đang chới với trên mặt nước, với đứa con trai mới lên 3
đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị tàu cán qua và chết đuối. 10 người
trong số họ sống sót, sau đó được vớt lên và đưa tới Songkhla.
Toàn
thể thính giả đều nín lặng. Ðó là một câu chuyện thương tâm hơn những
chuyện khác, nhưng hẳn nhiên không phải là ngoại lệ, hiếm có. Có rất
nhiều tàu tị nạn đã bị hải tặc tấn công nhiều hơn một lần.”
UNHCR: 1979
Bao nhiêu thuyền nhân đã chết ngoài biển khơi? Không
ai biết chắc cả. Nhiều người nói với chúng tôi rằng có lẽ 5% các tàu
rời Việt Nam đã bị mất tích, nhưng nhiều người lại cho là có đến 70% tàu
không hề đến được bờ.
Trong
vài năm đầu những thuyền tỵ nạn còn được tiếp đón tử tế bởi dân chúng
và chính phủ các nước láng giềng nhưng vì làn sóng tỵ nạn ngày càng
nhiều nên những niềm nở ban đầu đã bị giảm xuống hoặc tệ hơn đã bị thay
bằng thái độ xua đuổi như đã từng xẩy ra ở Thái Lan, Mã Lai. Tầu của
người tỵ nạn, khi bị tầu hải quân Mã kéo trở ra hải phận quốc tế có một
số đã bị chìm và làm chết oan một số người. Do đó nếu như may mắn không
bị bắt lại, thoát được gió bão, không hư máy dọc đường và không gặp hải
tặc các thuyền nhân vẫn chưa chắc sẽ đến được các trại tạm cư. Ðó là
chưa kể đến những khó khăn về đủ mọi phương tiện từ vệ sinh, y tế, nước
uống, thực phẩm…nơi các trại tỵ nạn. Thật ra dùng chữ trại tỵ nạn cho
lịch sự vậy thôi chứ vào thời điểm ấy không một quốc gia nào có thể
lường được là con số người chạy cộng sản, bỏ nước ra đi sẽ đông đến như
vậy. Do đó chẳng có quốc gia nào đã có những sửa soạn để có thể đón
tiếp một số lượng người đến quá ào ạt và nhiều đến thế. Trại tỵ nạn đã
là những kho xưởng, những trại lính, những chiếc phà cũ, những chiếc
phao nổi, những hòn đảo san hô hoặc đảo hoang, nhỏ nằm chơ vơ giữa đại
dương. Ðặt được chân trên đất là phải đi tìm cỏ, đốn cây để dựng lều để
tạm trú tránh cái nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm….Còn nhiều nhiều
nữa, kể sao cho hết những cái khổ của kiếp lưu vong. Ðến năm 1988 vì
quá mệt mỏi với số người tỵ nạn phải cưu mang trên hơn mười năm, Cao Ủy
tỵ nạn và các quốc gia có trại tạm cư đã quyết định áp dụng hệ thống
thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của các thuyền nhân nếu
họ đến sau ngày 16-6-1988. Quyết định này cũng đã gây ra khá nhiều thảm
cảnh rất đáng thương như được kể lại dưới đây.
Sau đây là vài trích đoạn về những thảm cảnh đầy nước mắt đó.
“0
giờ ngày 16-6-1988 mở đầu một định mệnh khác cho những người Việt Nam
vượt biển đến Hồng Kông. Kể từ ngày này họ sẽ bị đối xử như những người
nhập cảnh bất hợp pháp và phải chờ chính phủ thanh lọc để xác định tư
cách tỵ nạn chính trị, trước khi được cứu xét cho đi định cư ở nước thứ
ba. Thời điểm phủ nhận ý nghĩa ban đầu sự ra đi của người vượt biển.
Thời điểm đánh đổ mọi luận cứ sắp sẵn về quyền tỵ nạn, về quyền đi tìm
chỗ trú, và đồng thời che dấu luôn sự bất lực của con người trước thảm
cảnh của đồng loại, sự hấp hối của lương tri trước nỗi khổ của những
cuộc khởi hành muộn. Như một tấm màng nhện giăng ra chận bắt những cuộc
đời lưu lạc, thời điểm 16-6 dựng nên những trại giam khổng lồ trên khắp
thuộc địa Hồng Kông, ghi thêm một thảm cảnh thời đại.”
Lê Ðại Lãng - NƯỚC MẮT TRONG TIM
“Ngày
20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau đó
anh đã chết vì phỏng nặng.” Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam,
tự thiêu ở trại tị nạn Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994. Hai ngày thì
anh qua đời.
Vietnamese
refugees were allowed to come on shore at the Government Dockyard at
Canton Road. A number of water taps were installed for them to take a
cold shower.
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-20.html
Ngày
12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không vận của
Nam Việt Nam, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị
khước từ tư cách tị nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị
bác. Anh mất đi để lại 1 góa phụ và 3 đứa bé mồ côi cha còn nhỏ dại.
Ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tị nạn chính trị.
Hoàng
Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên
khỏi Việt Nam. Cha cô là lãnh tụ của một chính đảng chống cộng và đã
chết trong ‘trại cải tạo’ của cộng sản. Gia đình cô bị trục xuất khỏi
nhà, tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân Cúc cũng bị đuổi khỏi
trường vì ‘lý lịch gia đình xấu’. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị
khước từ quy chế tị nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng
bị bác bỏ, cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew,
Thái Lan.
Vụ
tự sát của Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đã gây nên một cuộc biểu tình phản
đối ở trại tị nạn Pulau Bidong, Mã Lai. Anh đã lao mình từ vách đá
xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tị nạn chính trị vào tháng giêng
năm 1991.
Trần
Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy
chế tị nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã
bị rớt ‘thanh lọc’. Vì Khôi không có 3.000 đôla Mỹ mà các viên chức
duyệt xét đòi hỏi, đơn kháng cáo của anh sau đó cũng bị bác.
Ngày
8/12/1993, Trần Anh Dung từ trần khi lên cơn suyễn, sau khi Cao ủy tị
nạn Liên Hiệp Quốc (LHQ) đóng cửa trạm y tế duy nhất trong trại tị nạn.
Tháng
2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, một em gái 16 tuổi không người thân thích,
đã tự thiêu sau khi Cao ủy tị nạn LHQ rút lại quy chế tị nạn của em.
Vietnamese refugees arriving at Hong Kong by junks.
“Chị
thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tị nạn chính trị. Rạng sáng
mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ
ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu”
(Thư tuyệt mệnh của anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hồng Kông, ngày 16/2/1990.)
“Bản tường trình của luật sư đã khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó đã dần dần đẩy tôi vào chỗ chết.”
(Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao ủy tị nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.)
“Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.”
(Vài
hàng tuyệt mệnh của Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đã tự
đâm vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy tị nạn LHQ tại trại
Sungei Besi, Mã Lai.)
Living in the Refugee Camp
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
VIETNAMESE BOAT PEOPLE – A CRY TO HUMANITY
Inside the Refugee Camp
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
Boat people were waiting for medical checks before transferring to refugee camps
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-32.html
Lời Kết
Cuộc
Di Tản và Vượt Biên sau ngày 30 tháng tư năm 1975 là một bản án muôn
đời đối với chính sách vô nhân đạo của Cộng Sản Việt Nam. Những cảnh
tượng đau thương, kinh hoàng mà người Di Tản và Vượt Biên phải gánh
chịu thật không bút nào ta hết. Tuy nhiên trong biến cố đầy bất hạnh
đó, cũng không thiếu những tấm lòng bao dung, thể hiện rõ tình người,
của binh sĩ và dân chúng Hoa Kỳ cũng như các quốc gia trong thế giới tự
do, nhất là các nước vùng Đông Nam Á đã bao dung chúng ta tại các trai
tị nạn.
Chúng
ta mang ơn dân chúng và chính phủ các quốc gia đã cưu mang người Việt
tỵ nạn, giúp chỗ tạm cư, cho phép định cư hoặc đã cứu vớt tầu tỵ nạn khi
lạc lối, hết lương thực hay máy tầu bị hỏng. Chắc chắn là sự thành
công của thế hệ thứ hai trong Cộng Ðồng Người Việt Hải Ngoại, sẽ không
bao giờ xảy ra nếu không có sự cưu mang của các quốc gia trong Thế Giới
Tự Do vào thời điểm đen tối đó.
Ngày
hôm nay, sau hơn 30 năm tỵ nạn, viết lại một phần nhỏ trong những nỗi
khổ đau của dân tộc để chúng ta ôn lại và ghi nhớ một sự kiện lịch sử
không phải là của riêng Việt Nam, mà là của thế giới, trong đó chính
chúng ta vừa là tác nhân, vừa là nhân chứng.
Các em tới Trại Tỵ Nạn . . . và thành công trên quê hương thứ hai
Hơn
30 năm sống lưu vong, lúc nào đa số chúng ta cũng vẫn mong có ngày trở
về để góp phần xây dựng lại quê hương lạc hậu, giúp cho dân tộc ta sớm
được sống trong không khí Tự Do, Dân Chủ đích thực mà dân ta chưa bao
giờ được hưởng.
Ðiều
này chỉ có thể xảy ra khi người Việt trong và ngoài nước thật tâm đặt
quyền lợi của Tổ Quốc lên trên mọi quyền lợi riêng tư và thoát được sự
chi phối của các thế lực chính trị quốc tế.
* * *
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tran Gia Phung – Speech Delivered at Montreal, Canada on April 30, 2002
Nguyễn Văn Canh - Cộng Sản Trên Ðất Việt - Kiến Quốc 2003
Ashworth Georgina – The Boat People and The Road People – Quartemaine House 1979
Phạm Hữu Trác – Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do – VÀNG MÁU và NƯỚC MẮT: Khảo Sát Về Tù Cải Tạo và Vượt Biên Trong Giới Y Sĩ – 2000
Paul Anthony – Why They Flee Their Homeland – Reader’s Digest December 1979
Grant Bruce – The Boat People: An ‘AGE’ Investigation – Penguin Books 1979
Hawthorne Lesleyanne – Refugee The Vietnamese Experience – Oxford University Press 1982,
Wain Barry – The Refused: The Agony Of The Indochina Refugees – Simon & Schuster 1981
Lê Ðại Lãng – Bút Ký Hồng Kông: NƯỚC MẮT TRONG TIM – 1990, p. I
Support Committee for Refugees from Vietnam – Vietnamese Boat People: A CRY TO HUMANITY – 1994
No comments:
Post a Comment